Việc kiến thiết một Tòa án hiến pháp liên bang độc lập, bắt nguồn từ nguyên lý xây dựng nhà nước pháp quyền (Rechtsstaat) ở Đức. Các nhà lập hiến Đức cho rằng không thể có nhà nước pháp quyền thực sự nếu như quyền lực nhà nước không bị hạn chế và không tồn tại một cơ chế phân quyền, kiểm soát, cân bằng giữa các nhánh quyền lực nhà nước. Làm thế nào để xác định được rằng một hành vi cụ thể có vi hiến hay không, nếu như Hiến pháp chỉ toàn những qui định chung, mơ hồ, không có giải thích cụ thể hay đảm bảo ràng buộc gì cả? Khi xây dựng cơ chế bảo hiến, các nhà lập hiến Đức đã ý thức rất rõ vấn đề khó khăn này và rất khéo léo trong việc xác định chủ thể bảo vệ, mục tiêu bảo vệ, phạm vi, cách thức bảo vệ và đặt nó trong một chỉnh thể của Luật cơ bản thống nhất.
Nhiều học giả hiện nay đánh giá cao cơ chế bảo hiến ở Đức, coi đây là một trong những mô hình thành công trên thế giới và rất đáng tham khảo đối với Việt Nam. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là vì sao cơ chế bảo hiến lại có thể thành công ở Đức, ẩn sau thành công ấy là những điều kiện, tiền đề nào? Bài viết dưới đây tôi xin chia sẻ quan điểm cá nhân cùng góp bàn, lý giải về vấn đề này.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu, tôi cho rằng sở dĩ cơ chế bảo hiến ở Đức có thể thành công là do cơ chế này đã hội tụ được đầy đủ cả ba điều kiện cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các nhà lập hiến Đức đã đặt cơ chế bảo hiến trong điều kiện của một chế độ dân chủ bền vững, đồng thời lường tính trước lộ trình thực hiện
Không ai đi bảo vệ cái mà mình không mong muốn. Trước khi đặt ra vấn đề bảo hiến, những nhà lập hiến và người dân Đức ý thức rất sâu sắc điều mà họ muốn bảo vệ. Nhân dân Đức là những người thấu hiểu hơn ai hết sự tàn bạo, phi nhân tính của thể chế độc tài dưới thời Hitler đã gây ra và họ không muốn điều đó một lần nữa lặp lại ở trên nước Đức. Cũng chính từ nhu cầu ấy mà một chế độ dân chủ cần phải được xây dựng và được bảo vệ, những quyền làm người cơ bản phải được đảm bảo.
Thực ra không phải ngay sau khi có hiệu lực vào năm 1949 nước Đức đã có ngay một cơ chế bảo hiến hoàn chỉnh. Phải chờ thêm hai mươi năm sau (năm 1969), kể từ khi Luật cơ bản có hiệu lực, chế định khiếu kiện Hiến pháp của công dân tại Điều 93 khoản 1 số 4a LCB mới được bổ sung, nhằm cụ thể hóa con đường tố tụng Hiến pháp (Rechtsweg) tại Điều 19 khoản 4 Câu 1 LCB.[3] Sau hai mươi năm, đặc biệt là sau cuộc đại nhảy vọt về kinh tế và những chuyển biến xã hội sâu sắc của những năm 1950, 1960, CHLB Đức mới hội tụ được đầy đủ các điều kiện chín muồi cả về kinh tế xã hội cũng như về pháp lý để hiện thực hóa đầy đủ các qui định về bảo hiến.
Thứ hai, các nhà lập hiến Đức đã xác định chính xác vị trí pháp lý và qui định rất rành mạch chức năng, thẩm quyền của Tòa án hiến pháp liên bang, xác định rõ phạm vi, biện pháp và cách thức xử lý các hành vi vi hiến
Việc kiến thiết một Tòa án hiến pháp liên bang (Bundesverfassungs-gericht) có một vị trí độc lập ở Đức bắt nguồn từ nguyên lý xây dựng nhà nước pháp quyền (Rechtsstaat). Các nhà lập hiến Đức cho rằng không thể có nhà nước pháp quyền thực sự nếu như quyền lực nhà nước không bị hạn chế, không tồn tại một cơ chế phân quyền, kiểm soát và cân bằng quyền lực giữa các nhánh quyền lực nhà nước.
Theo Luật cơ bản, Tòa án hiến pháp liên bang Đức đồng thời có 2 chức năng. Hai chức năng này tạo nên vị trí độc lập của Tòa án hiến pháp liên bang trong hoạt động xét xử.
Chức năng thứ nhất, Tòa án hiến pháp liên bang là một cơ quan có chức năng xét xử như các Tòa án khác (Theo các Điều 92, 93, 94, 97 LCB).
Chức năng thứ hai, theo Điều 1 Khoản 1 Luật tòa án Hiến pháp liên bang (Bundesverfassungsgerichtgesetz - dưới đây viết tắt là LTAHPLB), Tòa án hiến pháp liên bang là một thiết chế hiến định (Verfassungsorgan) giống như các thiết chế khác ở liên bang như Hạ nghị viện (Bundestag), Thượng nghị viện (Bundesrat), Tổng thống liên bang (Bundespräsident) và Chính phủ liên bang (Bundesregierung).[4]
Hội đồng xét xử thứ nhất có nhiệm vụ xét xử các vụ việc liên quan đến việc xâm phạm các quyền cơ bản của công dân (Grundrechte) từ phía nhà nước theo Điều 14 Khoản 1 LTAHPLB, gọi chung là các khiếu kiện Hiến pháp (Verfassungsbeschwerde).
Hội đồng xét xử thứ hai có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề còn lại thuộc thẩm quyền theo Điều 14 Khoản 2 LTAHPLB.
Việc chia thành hai hội đồng xét xử như vậy cũng là một cách làm khôn khéo vì một mặt tiến độ xét xử các vụ việc liên quan đến Hiến pháp được đẩy nhanh, mặt khác tính chuyên môn hóa cũng được nâng cao do mỗi Hội đồng xét xử phụ trách một nhóm các khiếu kiện hiến pháp độc lập.[6]
Không ai đi bảo vệ và cũng không thể bảo vệ một Hiến pháp không rõ đối tượng, không rõ mục đích. Làm thế nào để xác định được rằng một hành vi cụ thể có vi hiến hay không, nếu như Hiến pháp chỉ toàn những qui định chung, mơ hồ, không có giải thích cụ thể hay đảm bảo ràng buộc gì cả? Khi xây dựng cơ chế bảo hiến, các nhà lập hiến đã ý thức rất rõ vấn đề khó khăn này và rất khéo léo trong việc xác định chủ thể bảo vệ, mục tiêu bảo vệ, phạm vi và cách thức bảo vệ Hiến pháp.
– Quyền tuyên bố một đạo luật là vi hiến nếu đạo luật đó trái với Luật cơ bản (Điều 100 khoản 1 LCB);[8]
– Quyền giải thích, kiểm soát các qui phạm Hiến pháp (Điều 93 khoản 1 số 2 LCB, Điều 100 LCB);[9]
– Quyền giải quyết xung đột thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Liên bang (Điều 93 khoản 1 số 1 LCB);[10] Quyền giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa liên bang và tiểu bang (Điều 93 Khoản 1 số 3 và số 4);[11]
– Quyền giải quyết khiếu kiện liên quan đến bầu cử (Wahlprüfungs-verfahren) (Điều 41 Khoản 2 LCB)[12], tuyên bố giải tán một Đảng phái nào đó (Parteiverbotsverfahren - Điều 21 Khoản 2 LCB)[13], giải quyết khiếu kiện Tổng thống (Điều 61 Khoản 2 LCB);[14]
– và đặc biệt là quyền giải quyết khiếu kiện Hiến pháp của cá nhân khi bị cơ quan công quyền xâm phạm các quyền cơ bản qui định từ Điều 1 đến Điều 19 LCB (Verfassungsbeschwerde - Điều 93 khoản 1 số 4a).[15]
Thứ ba, các nhà lập hiến Đức đã đặt ra đầy đủ các điều kiện để đảm bảo cho sự độc lập của Thẩm phán Tòa án hiến pháp liên bang
Điều 92 Câu 1 LCB qui định: “Quyền xét xử được trao cho thẩm phán”. Điều này có nghĩa rằng ở Đức, thẩm phán luôn nhận được sự tin tưởng tuyệt đối và cũng nhận lấy trách nhiệm to lớn trước nhà nước và xã hội.
Các thẩm phán Tòa án hiến pháp liên bang Đức hội đủ các điều kiện đảm bảo sự độc lập cả bên trong và bên ngoài. Cụ thể là:
Về tiêu chuẩn của Thẩm phán: Điều kiện để được bầu làm thẩm phán Tòa án hiến pháp liên bang trước tiên phải đạt được những tiêu chuẩn sau:
– từ 40 tuổi trở lên (Điều 3 Khoản 1 LTAHPLB),
– tối thiểu phải thi đỗ kỳ thi quốc gia thứ hai về luật (2. Juristisches Staatsexamen)[17] hoặc là Giáo sư luật (Professor der Rechte)[18] tại trường Đại học ở Đức (Điều 3 Khoản 2 LTAHPLB và Điều 5 Khoản 1 Luật thẩm phán (Deutsches Richtergesetz[19]).
– không được đồng thời là thành viên của Hạ viện, Thượng viện, Chính phủ liên bang, cũng như bất cứ cơ quan nào của bang (Điều 94 Khoản 1 Câu 3 Luật cơ bản và Điều 3 Khoản 3 LTAHPLB).
Về qui trình bầu thẩm phán: Thẩm phán Tòa án hiến pháp liên bang được bầu theo nguyên tắc bầu đa số tiêu chuẩn (tức là phải đạt được 2/3 số thành viên tán thành) (Điều 94 Khoản 1 Câu 2 LCB và các Điều từ Điều 5 LTAHPLB). Các thẩm phán được bầu theo nguyên tắc một nửa là từ Hội đồng bầu thẩm phán (Richterwahlausschuss) của Hạ viện (Theo Điều 6 LTCTAHPLB) và một nửa là bởi Thượng viện (Theo Điều 51, 52 LCB và Điều 7 LTCTAHPLB).[20]
Về nhiệm kỳ của Thẩm phán: Nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án hiến pháp liên bang là 12 năm và chỉ được bầu duy nhất một lần (Điều 4 LTAHPLB).
Về thu nhập: Lương của Chánh án Tòa án Hiến pháp liên bang tương đương với lương của Bộ trưởng khoảng 15.500 Euro/ 1 tháng.[22] Lương của Thẩm phán Tòa án Hiến pháp liên bang tương đương với lương của Chánh án Tòa án Tối cao (Nhóm BBesO R10) khoảng 12.503 Euro/ 1 tháng.[23]
Về tính độc lập với ngành hành pháp: Theo Điều 94 Khoản 1 Câu 3 LCB và Điều 3 Khoản 3 LTCTAHPLB thì Tòa án Hiến pháp liên bang:
- Không có giám sát công vụ (keine Dienstaufsicht),
- Không có sự chỉ đạo công tác xét xử từ bên ngoài (keine Dienstweg),
- Không phụ thuộc vào các cơ quan hành chính trong việc trả lương, có ngân sách riêng độc lập (eigener Haushalt) về việc trả lương thẩm phán.[24]
Về sự độc lập khi xét xử: Điều 97 Khoản 1 LCB qui định: “Khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo luật”. Theo Điều 15 Khoản 2 Câu 1 LTAHPLB, khi xét xử, Hội đồng xét xử phải có ít nhất 6 trên tổng số 8 thẩm phán tham gia và quyết định theo nguyên tắc quá bán (einfach Mehrheit). Trong trường hợp số phiếu bằng nhau thì giải quyết theo Điều 15 Khoản 4 Câu 3 LTAHPLB). Thẩm phán Tòa án Hiến pháp khi phán quyết chỉ tuân theo Hiến pháp và luật, hoàn toàn không chịu bất cứ tác động nào từ phía bên ngoài, không chịu bất cứ sự chỉ đạo nào về mặt chính trị hay hành chính. Đây là tiêu chí, là đòi hỏi quan trọng nhất đảm bảo tính độc lập của thẩm phán.
Về sự ràng buộc của phán quyết: Ý nghĩa đặc biệt nhất trong phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang chính là giá trị của phán quyết được qui định tại Điều 31 Khoản 1 LTAHPLB: "Phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang có hiệu lực ràng buộc đối với các thiết chế hiến định của liên bang, các tiểu bang cũng như tất cả các tòa án và cơ quan hành chính."[25]
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng cơ chế bảo hiến ở Đức thành công vì cơ chế này đã hội tụ được đầy đủ các điều kiện chính trị pháp lý, kinh tế, xã hội và các điều kiện đảm bảo cho sự độc lập của quan tòa. Nhìn về Việt Nam, dù đã được bàn thảo khá nhiều, nhưng xem ra hành trình xây dựng một cơ chế bảo hiến phù hợp vẫn còn khá gian nan. Dường như chúng ta còn rất nhiều việc phải làm, không chỉ xây dựng những nền tảng về mặt pháp lý, mà còn cả những điều kiện khác về chính trị, kinh tế, xã hội - những đảm bảo mà thiếu hoặc không được quan tâm một cách xứng đáng, tôi cho rằng các qui định về bảo hiến nếu có được đặt ra đi nữa thì cũng vẫn chỉ tồn tại trên giấy mà không thể vận hành được vào cuộc sống một cách hiệu quả.
__________________________________
Chú thích
[1] Điều 1 LCB qui định: “(1) Nhân phẩm là bất khả xâm phạm (unantastbar). Coi trọng và bảo vệ nhân phẩm là nghĩa vụ của tất cả các nhánh quyền lực nhà nước. (2) Nhân dân Đức vì thế thừa nhận việc nhân quyền (Menschenrechte) là bất khả xâm phạm và không thể bị lạm dụng hay áp đặt (unveräußerlichen) như là nền tảng của mỗi một cộng đồng, hoà bình và công lý trên toàn thế giới. (3) Các quyền hạn cơ bản dưới đây ràng buộc các nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với tính chất là quyền có hiệu lực trực tiếp (unmittelbar geltendes Recht).”
[2] Điều 20 LCB qui định: “(1). Cộng hòa liên bang Đức là một nhà nước liên bang dân chủ và nhà nước liên bang xã hội. (2). Tất cả quyền lực nhà nước là từ nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước được thực thi bởi nhân dân thông qua bầu cử, trưng cầu dân ý và thông qua các cơ quan độc lập thuộc nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. (3). Quyền lập pháp bị ràng buộc bởi trật tự hợp hiến, quyền hành pháp và tư pháp bị ràng buộc bởi các Đạo luật và các văn bản pháp luật. (4). Tất cả người dân Đức đều có quyền thay đổi nhà nước (Recht zum Widerstand), nếu nhà nước ấy đi ngược lại những nguyên tắc cơ bản trên đây, khi mà các liệu pháp khác đã được áp dụng nhưng không hiệu quả”.
[3] Điều 19 khoản 4 LCB qui định: “Bất cứ ai cho rằng quyền tự do cơ bản của mình bị xâm hại, đều có quyền khởi kiện lại nhà nước.”
[4] Theo qui định của Luật cơ bản Đức có 5 thiết chế Hiến định của liên bang (Verfassungsorgane) gồm có: Hạ viện liên bang (Bundestag), Thượng viện liên bang (Bundesrat), Chính phủ liên bang (Bundesregierung), Tổng thống liên bang (Bundespräsident) và Tòa án hiến pháp liên bang (Bundesverfassungsgericht). Về nguyên tắc, các thiết chế này là ngang hàng nhau, kiểm soát và cân bằng quyền lực, không cơ quan nào cao hơn cơ quan nào. Các Tòa án tối cao của liên bang (Bundesgerichthofs) trong hệ thống các cơ quan tư pháp (Rechtsprechung) không có được vị trí là thiết chế hiến định như Tòa án hiến pháp liên bang.
[5] Luật Tòa án Hiến pháp liên bang Đức (Gesetz über das Bundesverfassungsgericht) lần đầu tiên được công bố vào ngày 12 tháng 3 năm 1951, trên Công báo số 1 từ trang 243, có hiệu lực thi hành từ ngày 17 tháng 4 năm 1951. Mặc dù đạo luật này do Nghị viện ban hành, nhưng thực chất nó xây dựng một qui trình tố tụng hiến pháp bền vững, cùng với qui định tự hành trong hoạt động của Tòa án (Điều 1 Khoản 3 BverfGG), bảo vệ khá tốt sự độc lập của Tòa án, đồng thời với qui định này Nghị viện cũng sẽ không thể dễ dàng sửa luật nhằm tìm cách can thiệp vào công tác xét xử của Tòa án Hiến pháp.
[6] Xem thêm: Võ Trí Hảo, Philipp Kunig, Đặc trưng của mô hình tài phán Hiến pháp Đức, Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng quốc hội, Số 8 (4/2009), tr. 52–57.
[7] Tòa án Hiến pháp liên bang chỉ làm việc dựa trên cơ sở có khiếu kiện. Chức năng của Tòa án Hiến pháp khác với cơ quan hành chính không phải là thi hành Hiến pháp hay luật, mà là bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
[8] Xem: Wernsmann, Konkrete Normenkontrolle (Art. 100 Abs. 1 GG), Jura 2005, S. 328.
[9] Xem: Jarass/Pieroth, Grundgesetz für die Bundesrepublik Deutschland, Kommentar, 11. Aufl., 2011, Art. 93, Rn. 19 f.
[10] Xem: Jarass/Pieroth, Grundgesetz für die Bundesrepublik Deutschland, Kommentar, 11. Aufl., 2011, Art. 93, Rn. 5 f.
[11] Xem: Hillgruber/Goos, Verfassungsprozessrecht, 2. Aufl. 2006; Alleweldt, BVerfG und Fachgerichtsbarkeit 2006.
[12] T.Koch, „Bestandsschutz“ für Parlamente? – Überlegungen zur Wahlfehlerfolgenlehre, DVBl 2000, 1093; Roth, Subjektiver Wahlrechtsschutz und seine Beschränkungen durch das Wahlprüfungsverfahren, FS Graßhof, 1998, S. 53.
[13] Xem thêm các phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang: BVerfGE 4, 27/30f.; BVerfGE 11, 239/241ff.
[14] Xem: Kunig, Der Bundespräsident, Jura 1994, S. 217f.; Kilian, Der Bundespräsident als Verfassungsorgan, JuS 1988, S. 33.
[15] Xem: Zuck, Das Recht der Verfassungsbeschwerde, 3. Aufl., 2006; Hain, Die Individualverfassungsbeschwerde nach Bundesrecht, 2002.
[16] Số liệu thống kê thực tế của Tòa án Hiến pháp liên bang Đức về giải quyết các vụ việc của Tòa án Hiến pháp liên bang Đức từ ngày 7/9/1951 đến ngày 31/12/2007 công bố tại website chính thức của Tòa án hiến pháp liên bang Đức tại địa chỉ: http://www.bundesverfassungsgericht.de/organisation/gb2007/A-I-1.html truy cập gần nhất ngày 3/4/2012.
[17] Hai ngành Luật và Y khoa là ngành đòi hỏi tiêu chuẩn đầu vào cao cũng như quá trình đào tạo lâu nhất ở nước Đức. Để có được chứng nhận kết thúc kỳ thi quốc gia thứ hai Assessor, kết thúc quá trình đào tạo luật chính thức (die voll-juristische Ausbildung), một sinh viên luật trung bình phải mất từ 9 đến 10 năm theo học. Đây là điều kiện cần để một người có thể hành nghề luật như Luật sư, thẩm phán, công chức, công tố viên hoặc tiếp tục nghiên cứu ở trường Đại học hay một Viện nghiên cứu. (Xem thêm: Nigel Foster, Satish Sule, German Legal System and Laws, 3. Edition, Oxford, 2008, p. 86).
[18] Điều kiện trở thành Giáo sư đại học (Professor) ở Đức rất khắt khe. Ngoài việc có chứng nhận Assessor, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ (Doktorarbeit), người có học vị tiến sĩ phải tiếp tục tích lũy nhiều điều kiện khác như: 1. Hoàn thành bậc sau tiến sĩ (Habilitation), bảo vệ thành công đề tài sau tiến sĩ (Habilitationsschrift); 2. Tích lũy đủ các công trình khoa học; 3. Tích lũy đủ kinh nghiệm giảng dạy và 4. Được một trường Đại học công nhận và bổ nhiệm. (Xem thêm: Nigel Foster, Satish Sule, German Legal System and Laws, 3. Edition, Oxford, 2008, p. 88).
[19] Luật thẩm phán của Đức lần đầu tiên được công bố ngày 8/9/1961, tại Công báo số 1 năm 1961 từ trang 1665, có hiệu lực thi hành ngày 1/7/1962. Đạo luật này được sửa đổi, bổ sung, được công bố lần thứ hai ngày 19/4/1972, đăng trên Công báo số 1 năm 1972, từ trang 713.
[20] H. Maurer, Staatsrecht I, 6. Aufl. 2010, § 19, Rn.1–28.
[21] Xem: Điều 13 Khoản 1 Luật tổ chức Tòa án Hiến pháp liên bang (GeschO BVerfG); Gröpl, Staatsrecht I, 3. Aufl. 2011, Rn. 1611ff.
[22] Xem cụ thể Luật về thu nhập của thành viên Tòa án Hiến pháp liên bang (Gesetz über das Amtsgehalt der Mitglieder des Bundesverfassungsgerichts) được ban hành ngày 28/02/1964, công bố tại Công báo năm 1964, quyển 1, từ trang 133, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/1964.
[23] Theo danh mục bảng lương 4, nhóm R, Luật trả lương của liên bang: Anlage IV Tabelle „R“ zum Bundesbesoldungsgesetz, cập nhật đến 28/2/2011.
[24] Gröpl, Staatsrecht I, 3. Aufl. 2011, Rn. 1611ff.
[25] H. Maurer, Staatsrecht I, 6. Aufl. 2010, § 19, Rn.1–28.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét