“Đảng ta là đảng ‘thần tiên’
‘Đa…
lô’ thì được, đa nguyên thì đừng!”
Câu
thơ theo trường phái Bút Tre diễn tả y chang cái tình cảnh của Đảng CSVN
hiện nay trước đòi hỏi tự do, dân chủ, đa nguyên, đa đảng của toàn dân.
Câu
trả lời dứt khoát của những lãnh đão đảng CSVN là: Không! Không bao giờ có đa nguyên, đa đảng gì sốt cả.
Trần Văn Giàu, lý thuyết gia Mác-xít thời
Hồ Chí Minh, đã nói lên điều này
trong cuộc hội thảo “Về công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới ở các nước Xã Hội
Chủ Nghĩa an hem và ở Việt Nam” vào ngày 7 tháng 1 năm 1990, tại nhà văn hóa
Lao Động thành Hồ, nhân dịp phong trào đòi Tự Do Dân Chủ ở Ba Lan, Tiệp Khắc bùng
nổ; và người Việt tỵ nạn cộng sản hải ngoại đò đa nguyên, đa đảng. Trần Văn Giàu
nói như sau:
“Chúng
ta tự giải phóng chúng ta, Đảng ta lãnh đạo không có ai chối cãi, mà cái thời
đại đó cũng không ai tranh giành từ 1930 đến 1945, cho đến năm 1975, không ai
đứng ra tranh giành, không có ai tuyên truyền cho đa đảng để mà chống Pháp,
chống Mỹ cả, bởi vì chống Pháp, chống
Mỹ là chết, có gan chịu chết mới tìm ra sự sống, mà trong sự chết đó, chỉ có
một mình anh Cộng Sản là có gan, và có tài đứng ra tổ chức cách mạng bằng kháng
chiến mà thôi… Bây giờ Âu Châu rục rịch, Pháp Mỹ tuyên truyền to, họ đăt vấn đề
đa đảng nghĩa là họ muốn giành cái gì đó, mà giành cái quyền hồi trước 75,
trước 45 nghĩa là giành cái quyền chế cho dân tộc! Còn bây giờ là giành cái
quyền… hưởng lợi trong hòa bình, trong sự xây dựng, họ không thành công đâu.
Tuy vậy, tuy rằng ở Việt Nam sẽ không có cái chuyện như Thiên An Môn đâu, không
có đâu, sẽ không có một trăm mấy mươi đảng như Hungary đâu, sẽ chỉ có mình đảng
Cộng Sản mà thôi, nhưng đảng Cộng Sản Việt Nam biết cái tình hình, biết cái khó
khăn, sửa đổi, đổi mới, phải đổi mới…”
“Đó, mọi sự đã rõ như ban ngày. Đòi đa nguyên,
đa đảng là “giành cái quyền hưởng lơi trong hòa bình”. Thì ra sự cai trị độc đảng
như hiện nay là vì cái ăn, cái lợi. NHững người chủ trướng hoà giải , hoà hợp nên
đọc kỹ đoạn này. Chính những người Cộng Sản khi chiến tranh còn là đồng chó với
nhau, nay hòa bình họ ngồi lại với nhau để hưởng lợi. Khi chia lợi không đồng đều,
họ còn chắng tiếc tay hạ sát nhau. Huống chi là quý vị chưa nếm mùi nguy hiểm như
họ, nay tiệc dọn ra, muốn đập đuôi nhảy vào… chia bớt phần của họ, nếu quý vị bị
họ “thịt” ra để khẩu hần của họ không giảm sút thì việc ấy xét ra cũng chẳng có
gì bất công cho lắm đâu. Bởi vì, chẳng những họ phải bảo vệ món ăn của người Cộng
Sản không nhỏ bớt, và họ còn dùng “thịt” của quý vị để là khẩu phần họ to lên.
Rốt cuộc, “thịt” mà quý vị muốn hiến dâng cho dân tộc, chỉ rơi vào tứ miệng hù
mà qúy vị tưởng là đang ngủ, thấy nó đẹp và hiền như loại mèo nhà, nên âu yếm
vuốt râu, dẫn chúng cùng đi, mong làm vui mắt thiên hạ; không dè, đó chỉ là con
hùm vờ ngủ… có tim!”.
(Trích
“Dương Thu Hương và Con Hùm Ngủ” tiểu
luận của Nguyễn Việt Nữ, trang 266).
*
Thực
ra không cần phải nhân dân đòi hỏi phải đa nguyên, đa đảng mà chính là đảng
CSVN đã cho “ra đời” và đã “xoá sổ” hai
đảng Xã Hội (do Nghiêm Xuân Yêm
làm Chủ tịch) và đảng Dân Chủ (do Nguyễn Xiển làm Chủ tịch, Hoàng Minh Chính làm Tổng Thư ký) sau khi xét thấy bất lợi cho đảng!
Xin
mời độc giả nghe Tiến sĩ Luật Nguyễn
Mạnh Tường giải thích về chuyện ra đời và dẹp bỏ 2 đảng này như sau:
“…
Như đồng chí đã biết, Đảng ta đã lập ra đảng Xã Hội và đảng Dân Chủ. Đảng Xã
Hội dành cho bọn trí thức và đảng Dân Chủ dành cho bọn tư sản. Đồng chí cũng
biết rằng Đảng không làm điều gì mà không cân nhắc kỹ. Những người mác-xít cố
chấp có thể trách ta đã xây dựng những đảng phái sai trật hẳn với quan niệ
mác-xít của một đảng chính trị.
Rằng hai đảng này không đáp ứng đúng đòi hỏi
mác-xít, chúng tax in lỗi, nhưng ta có cái lý của ta. Trước Cách mạng, trường
Pháp đào tạo ra nhiều thế hệ trí thức đã theo ta trong kháng chiến. Nhưng trong
10 năm kháng chiến, trường Pháp còn đào tạo thêm những thế hệ trí thức khác.
Khi trở về Hà Nội, một số đã bỏ ta, đi làm, đi học ở nước ngoài. Đối với những
kẻ ở lại, ta không thể bỏ rơi họ. Trước hết, vì lợi ích của chính họ, giúp họ
theo kịp những tiến bộ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của ta. Sau nữa, khi trở
về Hà Nội sau mười năm kháng chiến, ta vấp phải một tầng lớp dân chúng quá quen
nghe nói đến tự do và nhân quyền; vì
không muốn lộ bộ mặt chậm tiến, nên ta phải nói cùng thứ ngôn ngữ với bọn thực
dân Pháp cũ. Ta phải giả đò tôn trọng quyền của người dân được xây dựng những
đảng phái chính trị để bảo vệ quyền lợi của họ. Sau cùng, về mặt đối ngoại,
chúng ta phải bảo đảm với dư luận thế giới, về những tự do chính trị mà chúng
ta sẽ cho dân hưởng sau khi người Pháp đi khỏi. Nhưng dĩ nhiên là dưới cái bề
mặt phỉnh gạt ấy, chúng ta không thể mất cảnh giác, mà phải tiếp tục điều khiên
hai cái đảng mà chúng ta gọi là “anh em” từ lúc chúng ta mới dựng chúng nên và
trong suốt thời gian chúng còn hoạt động.”…
(Trích “Tiếng vọng trong đêm”, bản dịch của Thụy
Khuê).
Và,
như đã biết, đảng CSVN đã khai tử hai đảng Dân Chủ và Xã Hội. Xin mời nghe hai
nhân vật trong truyện “Tiếng Vọng Trong Đêm” của Tiến sĩ Luật sư Nguyễn Mạnh Tường
nói về chuyện này:
“-Anh
nghĩ sao về việc kết án tử hình hai đảng anh em mà đảng cộng sản là cha đẻ và cha
nuôi?
-Thực ra thì tôi thấy không cần phải bóp cổ
hai đứa con mà đảng cộng sản đã cho ra đời. Đó là những hài nhi ngoan ngoãn khó
bì, giữ trò con rối tuyệt vời.
Những máy người này được vo dầu mỡ tốt đến
độ chúng chạy hay như những người máy. Đó là những máy hát thời xưa chỉ biết
đọc những đĩa cũ.
Mặc dù hai đảng anh em biểu thị rõ đặc điểm
câm và ỳ, nhưng chúng vẫn là những đảng chính trị có thể làm lợi cho phong trào
đa nguyên đa đảng. Vì vậy đảng Cộng Sản thấy cần phải khẳng định sự độc quyền
lãnh đạo.
-Đi từ thực tế Việt Nam , chúng ta
thử trình bầy sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản:
Một cái đảng giữ độc quyền lãnh đạo khai trừ tất cả những đảng
khác, là hình ảnh một kỵ sĩ phi ngựa một mình. Quyền lực của nó là tuyệt đối,
nó không lệ thuộc vào bất kỳ điều kiện nào. Nó không cần ai làm cố vấn, không
cần hỏi ý kiến người khác. Không thể làm gì nếu không có lệnh của nó và tất cả
mọi lệnh mà nó ban ra phải đuợc thi hành. Nó không chịu bất cứ sự kiểm soát
nào. Nó cho phép, thậm chí khuyến khích tung hô những ciá hay mà nó làm, nhưng
cấm phán đoán và phê bình những cái dở do nó gây ra. Luật pháp diễn tả ý nguyên
của dân, nhưng cái đảng này nó ở trên luật pháp và ở trên dân. Không một thẩm
quyền nào có thể xử án cái đảng, bởi vì nó không thể tạo ra một tòa án để xử
chính nó. Nó có thể ra lệnh cho thuộc dân của nó phải tự kiểm thảo, nhưng bản
thân nó không làm. Không có con đường kháng cáo nào chống lại một trong những
quyết định bị dân kêu ca của nó. Chỉ có nước chờ sự phán xét của Thượng Đế!
Nhưng cái đảng còn ở trên Thượng Đế!
Khuyết tật cơ bản của chế độ này là kẻ cầm
quyền, khi cần quyết định, không thể lựa trong một số biện pháp khác nhau đã
được tuyển chọn, mà hắn chỉ có một biện pháp duy nhất là của chính hắn, mà chưa
chắc đã hay.
Người ta có thể phản bác rằng Lãnh Tụ thế
nào cũng chả hỏi ý kiến những nhân vật trong Bộ Chínhtrị, trong Ban Bí Thư,
trong Ủy Ban Trung Ương Đảng. Nhưng đừng nên quên rằng, trong Đảng bao trùm một
không khí kỷ luật sắt và sự lo sợ bị trừng phạt và tham vọng được thăng quan
tiến chức và được hưởng đủ loại ân huệ bổng lộc, từ nhà ở, lương bổng, đến
những công vụ béo bở ở nước ngoài, rồi những lợi lộc mà con cái được hưởng, và
sữ sợ hãi cũng như tham vọng làm tê liệt cái lưỡi của hơn một người cộng sản và
giải thích tại sao tất cả các thuộc hạ khi được Lãnh Tụ hỏi ý kiến luôn luôn
nghiêng mình với nụ cười và tuyên bố kinh ngạc trước trước thiên tài và sự
thông bác của LãnhTụ!
Người dân cũng vậy, không thể nào khác, một
khi có vinh hạnh được Đảng hỏi đến!
Lãnh Tụ có thể than thở như Moise: "Tôi
đầy quyền lực nhưng cô đơn”, nhưng hắn không thể chờ đợi một sự cứu trợ nào của
Thuợng đế bởi vì chính hắn là Thuợng đế trong xứ sở của hắn. Hắn bị cấm cố
chung than trong cô đơn!”
Và nhân vật tiểu thuyết “Tiếng vọng trong
đêm” của Tiến sĩ Luật Nguyễn Mạnh Tường nhận xét như sau:
“Hai cuộc Cải Cách Ruộng Đất và Cải Tạo Tư
Sản dẫn tới sự tịch thu đơn thuần ruộng đất trong tay địa chủ ở thôn quê và nhà
cửa trong tay gia chủ ở thị thành. Cuộc cách mạng hoàn tất năm 1945 tự nhận là
vô sản. Những người cách mạng vô sản không những thiếu văn hoá trí thức, lại
cũng không có động sản và bất động sản nữa, có nghĩa là họ không thể cai trị
một xứ sở, điều khiển một dân tộc. Không thể đòi hỏi gì ở những người bụng
rỗng, quần áo rách, không có cơm ăn, không có nhà trú qua đêm. Khi người ta
thiếu tiền, người ta lấy ở chỗ có. Đó là ăn cắp và trong một xã hội có luật, có
cảnh sát, thì sẽ bị bắt, bị tù. Nhưng
những người cách mạng vô sản nào có coi luật lệ ra gì: họ chỉ cần tuyên bố
trắng rằng sở hữu là ăn cắp! Rằng những người có đất có nhà đồng lõa với phản
động, rằng tất cả phải biết câu: lấy của kẻ cắp không phải là ăn cắp! Về phương
diện kỹ thuật thì chỉ cần ban sắc lệnh bãi bỏ sở hữu cá nhân. Là xong trò!”
(Trích
“Tiếng vọng trong đêm, bản dịch của Thụy Khuê, trang 96-97).
*
Súng
của nông dân đã nổ và máu của công an và bộ đội đã đổ trong vụ cưỡng chế đầm thủy
sản ở Tiên Lãng!
Súng
của ông an đã nổ và máu của nhân dân đã đổ trong vụ cưỡng chế đất ở Văn Giang!
Chiến
dịch Cải Cách Ruộng Đất thập niên 50 lại tái diễn khốc liệt!
Đảng
CSVN đã hiện nguyên hình kẻ cướp - theo tố cáo của các nhân vật truyện trong
truyện “Tiếng vọng trong đêm” của Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường - một kẻ sĩ bất khuất
của thời đại!
“Đảng Cộng sản không thể thay đổi mà phải
thay thế!”
Câu
nói của cố Tổng Thống Nga Boris Yeltsin
đúng hơn bao giờ hết.
LÃO
MÓC
http://nguyenthieunhan.wordpress.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét