Bộ phim kết thúc với cảnh gọi hồn người chết bỏ xác ngoài biển thuộc Hoàng Sa
trở về , nhập vào hình nhân bằng đất sét trong „ngôi mộ gió”*. Gia đình người
chết từ nay được an ủi, rằng hương hồn người thân của họ đã trở về gần gũi. Từ
nay họ đã có ngôi mộ để cúng giỗ , tưởng nhớ người ruột thịt, đã ra khơi và
không bao giờ trở về.
Đã lâu lắm rồi, tôi mới được xem bộ phim Việt Nam chân thực, khách quan,
thẳng thắn đầy xúc động như bộ phim này: ”Hoàng Sa- Nỗi đau mất mát” của Andrè
Menras Hồ Cương Quyết. Giờ đây, ông đang ngồi cùng với hơn 100 khán giả, hơn 100
người Việt tha hương trên đất nước Ba Lan, những người vừa xem xong bộ phim sẽ
nghe ông- một người Pháp -kể và trả lời những câu hỏi về bộ phim, về chính quê
hương Việt Nam của chúng tôi.
Mở đầu phim, trên màn ảnh là toàn cảnh địa lý của khu vưc Biển Đông. Khi nói
về sự ngỗ ngược của kẻ xâm lược, đường lưỡi bò màu trắng,đứt đoạn do Trung Quốc
tự vẽ để nhận chủ quyền của mình, trong đó có quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
hiện lên, Nó chiếm tớí 80% diện tích Biển Đông.
Nhìn đường lưỡi bò “liếm” đến sát thềm lục địa của Việt Nam, bất giác tôi nhớ
đến bài thơ “Nếu tổ quốc mai này không có biển” của nhà thơ Nguyễn Duy Xuân:
“Nếu tổ quốc mai này không có biển
Về đâu những con sóng vỗ
bờ
Những con chim hải âu bay liệng
Những con còng vẽ cát
vu vơ?
. . . .
Nếu tổ quốc mai này không có
biển
Bình minh thôi mọc đằng đông
Phía ấy chỉ còn dông
bão đến
Mặt tiền đất nước sóng triều dâng”
. . . .
Theo chân đoàn làm phim về xã Bình Châu, về làng nghề biển đã bao đời gắn bó
với Hoàng są. Đây bến cảng nhỏ Sa Kỳ, nơi cách đây nhiều thế kỷ, những ngư dân
đầu tiên đã ra đi chinh phục Hoàng Sa. Đây những chợ cá ven biển, khiến ta nhận
ra cái nghèo, cái vất vả của những người dân sống nhờ biển, sống bám biển. Dưới
nắng hè gay gắt, những người phụ nữ gầy guộc, đang trải rong biển ra phơi trên
bãi cát ven biển…
Với cách nói tiếng Việt đơn giản, dễ hiểu, giọng nhỏ nhẹ, xúc động, André Hồ
Cương Quyết phỏng vấn những nạn nhân của quân xâm lược Trung Quốc, ông vừa như
muốn biết sự thật, vừa như muốn an ủi họ, chia sẻ với họ những mất mát, những
khổ đau mà họ đã phải gánh chịu.
Bà Nguyễn Thị Hào, quê ở thôn Châu Thuận xã Bình Châu huyện Bình Sơn tỉnh
Quảng Ngãi, tháng 04-2008 chồng và con trai bị mất tìch tại đảo đá Bông Bay của
Hoàng Sa, trước đó, năm 2006 đã bị Trung Quốc bắt ở đảo Phú Lâm cũng thuộc Hoàng
są. Chồng và con ra đi, để lại cho bà món nợ mấy trăm triệu đồng.
Anh Tiêu Việt Là ở thôn Đông Đường xã Binh Châu, ngư dân đánh bắt xa bờ, bị
Trung Quốc bắt 4 lần tại Hoàng Sa. Năm 2006 ,2007, 2009 bị bắt, bị lấy hết tài
sản trên thuyền, thả cho về với thuyền không. Năm 2010 bị bắt tại đảo Phú Lâm,
bị giam 1 tháng, bị đánh đập, tra tấn đến mang bệnh, nay không còn đủ sức ra
khơi. Hiện còn nợ 400 triệu đồng, đó là số tiền đã vay để nộp tiền chuộc cho
Trung Quốc.
Cháu Phạm Văn Ôn, 16 tuổi. Năm 1996 bố cháu đang trên thuyền đánh cá tại
Hoàng Sa, tầu Trung Quốc chạy qua bắn chết ngay trên thuyền, những người sống
sót cho thuyền tháo chạy về đất liền.
Hãy nghe Hồ Cương Quyết trò chuyện với Ôn:
Cháu có nhớ bố không?
Dạ, cháu có nhớ.
Trong
trường hợp nào?
Trong trường hợp, những lúc mẹ khóc, mẹ
đau.
Cháu học lớp mấy?
Cháu học lớp 9.
Trong
tương lai, ước mơ của cháu là gì?
Tương lai của cháu là, cháu ước mơ
làm một công việc thích hợp với mình để nuôi sống gia đình.
Giúp đỡ
mẹ?
Dạ.
Vì thấy mẹ cực khổ quá?
Mẹ rất
cực!
Cháu có ý định đi biển không?
Dạ
không.
Tại sao lại không?
Tại vì cha đã mất ngoài biển
rồi, giờ cháu không muốn đi biển nữa.
Mẹ cháu Ôn, chị Trương Thị Nhị, lúc chồng chết đang mang thai đứa em của Ôn 3
tháng nói thêm:
Con nó nói là làm biển bây giờ nó sợ quá, tôi nói là thôi thì con dáng
học, rồi má có gì đó, ít nhiều cho con ăn học, không tới nơi thì cũng sơ sơ gì
đó, chứ bây giờ nó nói nó sợ đi biển quá.
Cháu sợ quá hay là mẹ?
Mẹ cũng sợ mà con nó cũng sợ.
André Hồ Cương quyết còn cho chúng tôi biết thêm, hàng trăm thanh niên của
vùng ven biển này, không muốn làm nghề biển vì nguy hiểm về tính mạng và tài
sản, họ tìm những nghề khác như đi hái cà phê ở Tây Nguyên, làm công nhân xây
dựng v…v.
Những người đang đi biển hiện nay rồi sẽ già yếu, không đủ sức đi
biển nữa. Nếu chính quyền, Hải Quân Nhân Dân không bảo vệ được tính mạng, tài
sản của ngư dân trước các” tầu lạ”, những thế hệ kế tiếp, thế hệ cháu Ôn sẽ
không đi biển nữa, biển sẽ trống vắng. Lúc đó, người hàng xóm phương bắc gian
manh, người „đồng chí bốn tốt”, tha hồ lộng hành, biến biển Việt Nam thành “ao
nhà” của mình. Đây rõ ràng là một nguy cơ đang hiển hiện đối với dân tộc ta, nếu
để nguy cơ này xẩy đến, ai sẽ là người mang tội với non sông đất nước, với cha
ông, những người đã hy sinh xương máu, mở mang bờ cõi để dân tộc Việt không bị
đồng hóa sau hàng nghìn năm đô hộ của giặc phương Bắc?
Trên đảo Lý Sơn, những người làm phim cho chúng ta xem những chứng tích thật
sống động về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
Đây là tượng đài của 70 dân quân đầu tiên được vua Gia Long phái đi để khai
thác quần đảo Hoàng Sa năm 1815. Họ đã vẽ bản đồ, cắm cọc tiêu để khẳng định chủ
quyền của An Nam.
Những người dân Lý Sơn đã bao đời gắn bó với Hoàng Sa. Những tên đảo Bông
Bay, Đá Lồi, Phú Lâm, Bạch Quy, Đảo Cây, Đảo Bắc, Đảo Nam…đã bao đời quen
thuộc, gắn bó với họ như tên làng, tên xóm nơi chôn nhau cắt rốn của họ. Tổ tiên
họ, đã bao đời đánh cá quanh đó, ra vào các đảo đó để nghỉ ngơi, tránh gió,
tránh bão, họ đã là những người chủ. Giờ đây, ngay cả lúc sóng to, bão lớn, họ
cũng không đựơc cho vào lánh nạn.
Ông Võ Hiển Đạt, 80 tuổi ở làng Tây An Vĩnh Lý Sơn nói:
“Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa đã được khẳng định từ thời chúa Nguyễn.
Khi Pháp sang đô hộ đã đặt căn cứ quân sự và đặt hải đăng tại Hoàng Sa. Cư dân
Lý Sơn là gắn bó với Hoàng Sa từ cổ kim rồi, Việc đánh bắt xa bờ, điều tất yếu
là dân Lý Sơn đã gắn bó với Hoàng Sa từ xưa đến nay. Bất ngờ, năm 1974 Trung
Quốc ngang nhiên tới chiếm, từ đây chúng gây khó khăn. Cư dân Lý Sơn rất thất
bại trong vấn đề đánh bắt. Bị bắt, nhưng vẫn cứ đi, bởi vì Hoàng Sa nó thuộc về
hải phận của Viêt Nam, chủ quyền lãnh thổ, nó là biển của Việt Nam không thể nào
cãi chối được. Bây giờ gặp khó khăn về kinh tế bởi vì quyền lợi kiếm sống ở
Hoàng Sa là cực kỳ to lớn. Sống còn, phong phú là nhờ Hoàng Sa, nhưng giờ này
Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đóng, thành thử vần đề khai thác hải sản bị gò bó,
dân Lý Sơn rất là khó khăn.”
Ông Phạm Hoại Tuyền, hậu duệ của họ Phạm. Ông tổ họ Phạm là một trong bẩy
người đầu tiên từ đất liền đến Lý Sơn để lập nên làng An Vĩnh, là thuyền nhân
của của đội hùng binh Hoàng Sa. Hiện ông Tuyền còn gìn giữ nhiều cổ vật rất giá
trị, trong đó có sắc chỉ của vua Gia Long, ca ngợi những người đi Hoàng Sa. Tổ
tiên của họ Phạm, đã có hai ngừơi đươc đặt tên cho hai đảo thuộc quần đảo Hoàng
Sa là đảo Hữu Nhật và Quang Ảnh.
Người xem còn được chứng kiến ngày lễ hội hàng năm của người dân trên đảo,
đón linh hồn những người đã bỏ mình tại Hoàng Sa, những ngư dân, những chiến sỹ
đã ngã xuống để bảo vệ Hoàng Sa trở về với Lý Sơn.
Người xem không khỏi bùi ngùi nghe bà Đỗ Thị Hảo, nghệ nhân hát dân ca Quảng
Ngãi ca:
Ớ. . .chiều chiều ra bến ngó mong
Ngóng ai lại ngóng ngỡ
người Hoàng Sa
Ớ. . .Chiều chiều ra ngóng biển xa
Ngóng
người đi lính Hoàng Sa chưa về
Ớ. . .Hoàng Sa trời nước mênh
mông
Người đi thì có mà không thấy về
Lời ca nghe buồn mênh mang, hòa với tiếng sóng biển rì rào như lời than vãn,
như lời trách móc của Hoàng Sa.
&
André Hồ Cương Quyết kể. Để làm được bộ phim này, ông đã bỏ ra hai tháng sống
và đi biển cùng với ngư dân ở Bình Châu và Lý Sơn. Ông đã gặp gỡ những ngư dân,
những người vợ góa, những đứa con côi của những ngư dân, nạn nhân của những hành
động xâm lược và khủng bố của Trung Quốc. Ông đã thấy những ngư dân không được
ai bảo vệ cả về sinh mạng và tài sản.
Khi làm phim, ông đã được Bộ ngoại giao Việt Nam, Đài truyền hình thành phố
Hồ Chí Minh giúp đỡ. Phim có giấy phép của Bộ văn hóa. Nhưng khi hoàn thành,
buổi chiếu ra mắt ở thành phố Hồ Chí Minh, trước giờ khai mạc, điện bị cắt , bị
từ chối cho mượn địa điểm. Phim cũng không được phổ biến, không được các đài
truyền hình trong nước chiếu.
Ông đã đến các nơi có trách nhiệm hỏi xem ai ra lệnh cấm chiếu phim này,
nhưng không ai trả lời ông. Cho đến nay ông vẫn không biết cá nhân hay cơ quan
nào đã ra lệnh cấm chiếu phim. Không có bất cứ một văn bản nào giải thích.
Ai đã đứng đằng sau lệnh cấm này?
Có thể đây là áp lực từ bên ngoài nên chẳng ai dám nói ra, chẳng ai tìm ra
được lý do nào để giải thích cho xuôi tai. Tốt nhất là đùn đẩy, thoái thác trả
lời. Để ngăn chặn các buổi chiếu phim thì dùng biện pháp của xã hội đen như cắt
điện, cấm các cơ sở cho mươn điểm chiếu…
Nhưng André Hồ Cương Quyết là một con người không dễ gì chịu khuất phục.
Những giá trị nhân bản của Cách Mạng Pháp năm 1789 “tự do,bình đẳng, bác ai” đã
sẵn có trong dòng máu của ông. Trái tim ông từ thời trai trẻ đã dành cho Việt
Nam, ông yêu Việt Nam với một tình yêu trung thủy, trong sáng, mãnh liệt. Ông
mang cuốn phim mà ông đã đổ bao công sức vào đó về quê hương ông – nước Pháp.
Ông đã mang nó đi chiếu ở một số thành phố của Pháp, ông sẽ đi một vòng ba nước
châu Âu Đức-Czech-Ba Lan, đến những thành phố có cộng đồng người Việt.
Ông tâm sự:
“Tôi thực hiện bộ phim này với mong muốn:
– Mang tiếng nói
của những ngư dân đến với quần chúng.
– Tạo một phong trào đoàn kết
ủng hộ ngư dân vùng Hoàng Sa, cả về tinh thần và vật chất.
– Tạo dư
luận trong nước và quốc tế ủng hộ Việt Nam trong việc kkẳng định chủ quyền đối
với quần đảo Hoàng Sa.”
Tại Ba Lan, phim được chiếu buổi đầu tiên tại
một trung tâm thương mại tập trung nhiều người Việt. Ông chủ cho mượn phòng
chiếu phim, một người Việt Nam cũng đã nhận được những cú ”phôn lạ”.
Nhưng Warszawa không phải là Hà Nội hay TP Hồ Chí Minh. Những người đứng ra
tổ chức, ngay từ đầu đã xác định, các buổi chiếu phim không phải là các hoạt
động chính trị chống đối nhằm vào ai, đơn thuần, đây chỉ là những hoạt động vì
tình yêu quê hương đất nước. Ngoài việc thông báo để nhiều người đến xem, họ đã
mời đại sứ quán và các hội đoàn người Việt.
Kết quả khá bất ngờ! Căn phòng hơn một trăm chỗ ngồi đã kín, có mặt hầu hết
những người đại diện của các tổ chức hội đoàn. Hầu hết những người đến xem phim
đã đóng góp để giúp đỡ ngư dân.
Một chủ trung tâm buôn bán của người Việt đã mời André Hồ Cương Quyết đến
thăm bà con buôn bán, ông được giới thiệu với mọi người. Năm nay ở Ba Lan, do
ảnh hưởng của khủng khoảng kinh tế, việc buôn bàn khó khăn, nhưng khi nghe đến
ủng hộ ngư dân Hoàng Sa ai cũng sốt sắng đóng góp. Người Việt Nam chúng ta , từ
khi lọt lòng mẹ đã được ru bằng câu ca dao: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người
trong một nước phải thương nhau cùng”. Vì vậy, đây cũng là dịp những người xa
quê hương nhớ về đất nước, nhớ về những người đồng hương đang gặp hoạn nạn.
Ngoài hai buổi chiếu chính thức, Hội Người Việt Nam tại Ba Lan còn tổ chức
chiếu thêm một buổi mang tính nội bộ, với khoảng 10- 15 người tham dự và có
quyên góp ủng hộ ngư dân.
3200 EUR đã được bà con đóng góp để giúp đỡ ngư dân Hoàng sa.
Cám ơn André Hồ Cương Quyết đã nhắc nhở chúng tôi về lòng yêu nước, về một
phần lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc Việt Nam đang bị kẻ thù chiếm đóng- Hoàng
Sa, về những người đồng bào của chúng tôi đang gặp hoạn nạn.
Cám ơn Mạc Việt Hồng, Ti- Sơn, Nguyễn Văn Thuấn …, đã bỏ thời gian, tiền bạc
để ”Hoàng Sa – Nỗi đau mất mát” được ra mắt tại Ba Lan.
Warszawa tháng
04-2012
© Đàn Chim Việt
Xem thêm hình ảnh tại đây
———————————————-
• *Mộ gió là ngôi mộ không có thi hài bên trong,vì người chết đã bỏ xác ngoài
biển khơi. Ban đầu người nhà lập nên ngôi mộ với nấm cát dưới mái tôn sơ sài.
Khi gia đình có đủ tiền (khoảng vài trăm EUR) mời thày pháp đến, tạo hình nhân
bằng đất sét, cúng lễ cầu hồn để hồn người chết trở về nhập vào hình nhân. Sau
đó, hình nhân được đưa vào trong mộ, ngôi mộ được xây như những ngôi mộ bình
thường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét