“Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Tổng hợp cùng di quyến thương tiếc
loan tin: Giáo sư Thạc sĩ Trần Đức Thảo sinh năm 1917 tại xã Phong Tháp, Từ
Sơn, Hà Bắc, nguyên Đại diện Việt kiều tại Pháp, Ủy viên ban Liên viện Paris,
thành viên ban Phụ trách Nghiên cứu Sử Địa, giáo sư trường Đại học Văn khoa và
Đại học Sư phạm Hà Nội, chuyên viên của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chuyên viên cấp
cao của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Huân chương Độc lập hạng nhì, đã nghỉ
hưu, sau một thời gian lâm bệnh đã được Đại sứ nước ta tại Pháp tận tình chăm
sóc, nhưng do tuổi cao bệnh nặng, đã từ trần vào lúc 8 giờ 10 phút, giờ Paris tại
bệnh viện Broussais Paris, hưởng thọ 76 tuổi. Lễ hỏa táng tại Paris ngày
28-4-93, lễ truy điệu giáo sư Thạc sĩ Trần Đức Thảo được cử hành lúc 10 giờ
ngày 28-4-93 tại giảng đường trường đại học Tổng hợp Hà Nội”.
Giáo sư Trần Đức Thảo là một
nhà Triết học nổi tiếng. Theo cuốn “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc”, học
giả Hoàng Văn Chí kể rằng: Trần Đức Thảo là con cụ Trần Đức Tiến, một tiểu
công chức tòng sự tại sở Bưu Điện Hà Nội. Lúc còn trẻ học ở Lycée Albert
Sarraut ông tỏ ra hết sức thông minh. Các thầy dạy ông, nhất là giáo sư Ner đã
phải kêu lên là không chấm nỗi bài của ông.
Ông đỗ Tú tài Pháp, ban Triết học năm 1935. Năm sau ông đỗ đầu trong kỳ
thi vào Normal Supérieure ở bên Pháp. Sau đó ông đỗ Thạc sĩ Triết học và dạy ở
Đại học Sorbonne.
Những tài liệu này có một vài
chi tiết hơi khác với các nguồn tài liệu khác.
Lúc đầu ông theo chủ nghĩa
Existentialisme của Jean Paul Sartre, nhưng từ năm 1946, ông thiên về chủ
nghĩa Marx và gia nhập đảng Cộng sản Pháp. Trong một cuộc phỏng vấn, ông cho biết:
“Tôi là người nghiên cứu về chủ nghĩa Marx, tôi không phải là người Cộng sản,
tôi không hề xin vào đảng Cộng sản Việt Nam”.
Nhưng có một điều chúng ta có
thể khẳng định mà không sợ nhầm lẫn là: Trần Đức Thảo là một người yêu nước.
Năm 1945, khi thực dân Pháp chuẩn bị trở lại Đông Dương, trong một cuộc họp
báo, một ký giả Pháp đã hỏi ông:
“Nếu mai đây quân đội Pháp
trở lại Đông Dương thì họ sẽ được dân chúng Đông Dương đón tiếp ra sao?”
Ông đã trả lời không do dự: “Bằng
những phát súng”.
Câu trả lời trên đã nói lên tâm
tư của ông đối với đất nước, và đã trở thành hiện thực. Quân đội Pháp đã phải đối
đầu với cuộc kháng chiến của toàn dân Việt Nam, mở đầu với những phát súng ngày
23-9-1945 tại Sàigòn.
Nhưng cũng vì câu trả lời này
mà ông và một số thân hữu đã bị chính quyền của De Gaule bắt giam vào
khám lớn La Santé trong ba tháng. Khi còn trong tù ông đã viết một bài báo nhan
đề “Về vấn đề Đông Dương” gửi đăng trên tờ Les Temps Modernes, là một tờ
báo chuyên về văn chương và triết học của phe tả (số ra tháng 2 năm 1946).
Đầu thập niên 50, dư luận đặc
biệt chú ý tới 5 buổi tranh luận giữa Jean Paul Sartre và Trần Đức Thảo. Cuộc
tranh luận giữa hai triết gia nổi tiếng này, đã được thỏa thuận trước là sẽ ghi
lại và xuất bản, theo nguyên văn cuộc tranh luận giữa hai người. Nhưng cuộc
tranh luận đã đi đến chỗ gay gắt vì những bất đồng ý kiến quá cách biệt giữa
đôi bên. Việc xuất bản do đó bị ngưng lại và đưa đến việc thưa kiện giữa hai
người.
Vụ thưa kiện đang được Toà án
thụ lý thì Trần Đức Thảo quyết định về nước trực tiếp chống Pháp. Vì theo ông:
“… Chiến tranh đã bùng nổ ngày càng căng thẳng… thế nên sau nhiều đêm suy nghĩ
đắn đo, tôi quyết định bỏ hết để đi về”. Và ông đã về thật, bỏ hết quyền lợi vật
chất và danh vọng. Những bạn bè thân thiết cho đây là một quyết định sai lầm, vì
liệu một nhà nghiên cứu triết học sẽ làm được gì trong bưng biền kháng chiến vất
vả và eo hẹp. Ông cũng đã nghĩ đến điều đó và ông tâm sự: “Nếu chuyến trở
về này mà không làm được gì thì cuộc đời tôi kể như chết từ hôm nay”. Rồi
ông rời Paris đi Prague, thủ đô Tiệp Khắc, qua Moscow, Bắc Kinh về Việt Bắc. Đó
là thời điểm cuối năm 1951.
Và đây, Tô Hoài kể về những
ngày đầu của nhà nghiên cứu Triết học Marxist Trần Đức Thảo ở Việt Bắc:
“… Trần Đức Thảo ở Pháp về
Việt Bắc… Trần Đức Thảo còn viết cả bài quy định giai cấp tiểu thương, tiểu chủ
cho các nhân vật Thúc Sinh, Mã Giám Sinh trong truyện Kiều. Trần Đức Thảo hồn
nhiên, hăng hái bằng các sinh hoạt của anh lúc ấy. Thảo đem cho hết đồ Tây, Thảo
mặc áo nâu, đi chân đất. Chúng tôi ngủ không màn, mặc dầu chúng tôi ở rừng đầu
sông Lô, đêm đến muỗi nhiều như trấu. “Về muộn mà, tớ phải luyện tập gian khổ
cho kịp với các cậu”. Trần Đức Thảo nói đứng đắn thế. Chẳng bao lâu, Thảo lăn
đùng ra sốt rét xanh tái…” (Tô Hoài, Cát Bụi Chân Ai).
Nhưng cũng trong lúc đó, ông cũng
choáng váng trước “hiện thực Marxist” mà ông lần đầu tiên tiếp xúc. Trước hết,
ông nhận ra rằng những người lãnh đạo ở Việt Bắc lúc ấy không coi ông là người
trong tổ chức của họ. Ông được giao cho những công tác lặt vặt và trái
chuyên môn. Qua năm 1953, ông được bố trí cho ngồi dịch các bài nói, bài viết của
Trường Chinh, người lúc ấy đang được coi là lý thuyết gia số một của Đảng.
Và cũng từ mùa hè 1953 ông trực tiếp tham gia cuộc “chỉnh huấn” dưới sự cố vấn
của các cán bộ Trung Quốc. Quan điểm thịnh hành lúc bấy giờ của cuộc “chỉnh huấn”
và “cải cách ruộng đất” ở vùng do Việt Minh kiểm soát là quan điểm hoàn toàn
Maoist, rập khuôn Trung Quốc.
Trước những hành động cuồng tín
của một số cán bộ cấp trung và cấp thấp, khi gặp những lãnh tụ tương đối có
trình độ, ông mạnh dạn đặt vấn đề thì được họ phũ phàng trả lời: “Đó là ý kiến
của lãnh đạo, phải tuyệt đối chấp hành, còn thắc mắc tức là có tư tưởng lệch lạc”.
Về Hà Nội, Trần Đức Thảo được cử
giữ chức Chủ nhiệm khoa Sử trường Đại học Hà Nội. Cuối năm 1956, một người
trong nhóm “Nhân văn” là Nguyễn Hữu Đang (người đã dựng lễ đài Độc Lập tại
Hà Nội năm 1945) đến gặp Trần Đức Thảo và nhờ viết bài. Ông nhận lời, và trên
Nhân văn số 3, ngày 15-10-1956, có bài viết của ông nhan đề “Nỗ lực phát triển
Tự do, Dân chủ”. Tiếp theo đó là bài “Nội dung Xã hội và hình thức Tự
do” trên “Giai phẩm mùa Đông”. Hai bài viết có tác dụng như hai quả bom nổ
giữa lòng Hà Nội. Ngay lập tức ông bị cách chức, bị lôi ra kiểm điểm cùng với tất
cả những ai có liên quan đến “Nhân văn” và “Giai phẩm mùa Đông” như Trần Dần,
Phùng Quán, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Trương Tửu, Lê Đạt… Cá nhân Trần Đức Thảo
nói riêng và nhóm “Nhân văn - Giai phẩm” nói chung bị bọn văn nô, bồi bút theo
lệnh Đảng tấn công liên tục suốt hai năm trời.
Phạm Huy Thông, tiến sĩ,
một trong những trí thức hàng đầu của miền Bắc lúc bấy giờ đã viết bài: “Một
triết gia phản bội chân lý: Trần Đức Thảo” đăng trên báo Nhân Dân số ra
ngày 4-5-1958, lúc cuộc đấu tố bước vào thời kỳ cao điểm. Bài viết buộc tội Trần
Đức Thảo hết sức gay gắt, nhiều chi tiết bịa đặt, dựng đứng để bôi xấu cá nhân
ông:
“… Thật ra thành tích học
thuật cũng như thành tích chính trị của Thảo ở Pháp trước đây, nhìn lại toàn là
những thành tích bất hảo. Mất gốc rễ dân tộc, Thảo chỉ say mê với văn học Hy Lạp,
với triết học duy tâm từ Pờ-la-tông đến Hê-ghen với những phương pháp suy luận
trừu tượng, hình thức. Trở nên môn đệ của Giăng-Pôn-Xác, Thảo đã tham gia những
hoạt động văn hóa và chính trị phản động của nhóm Thời Nay, do Xác chỉ huy, nêu
cao thuyết “sinh tồn” - một thuyết phản động về triết học và chính trị, chủ yếu
nhằm chống lại phong trào cộng sản ở các nước phương Tây. Dưới chiêu bài sinh tồn,
người ta thấy tập họp đủ mọi hạng phá hoại, Tờ-rốt-kít vô chính phủ cùng mọi cở
sa đọa về chính trị…” (Phạm Huy Thông, bài báo đã dẫn).
Nhưng nhà trí thức Phạm Huy
Thông, một người từng du học ở Pháp, đã không dừng lại ở đó:
“… Ngay từ năm 1945, Thảo
công kích những người đem tư tưởng Marxist truyền bá cho kiều bào, công nhân,
cho rằng công nhân không có văn hóa, không tiếp thu được hay tiếp thu một cách
máy móc thì nguy hiểm… Thảo phỉ báng chính sách ngoại giao của ta mà Thảo cho
là đầu hàng, phản bội. Nói về hiệp ước sơ bộ 6-3-1945, Thảo đã phụ họa với bè lũ
Tơ-rốt-kít chống lại chính phủ của ta và đã thốt ra những lời thóa mạ thô bỉ, rất
hỗn xược đối với các lãnh tụ của ta… Bọn Tơ-rốt-kít đã có lần gây một vụ đổ máu
thê thảm ở trại Ma-đát gần Mác-Xây, để đe dọa những kiều bào ủng hộ kháng chiến,
khiến hàng chục kiều bào thiệt mạng, hàng trăm kiều bào bị tàn phế, thương tật.
Nhiều người đã lên tiếng nói rằng không phải Thảo không có trách nhiệm gì trong
vụ khiêu khích bẩn thỉu này…” (PHT, bbđd).
Sau khi nói xấu Trần Đức Thảo đủ
điều (mà chúng tôi không thể nêu hết ra đây), Phạm Huy Thông xoay ra “chụp mũ,
quy kết chính trị” nhà triết học này:
“… Mùa Thu 1956, tưởng thời
cơ đã đến. Từ số 3 trở đi, báo Nhân văn chuyển hướng sang chính trị một cách rõ
rệt. Bài “Nỗ lực phát triển tự do, dân chủ” của Trần Đức Thảo được đăng trong số
báo ấy, mở đầu cho sự chuyển hướng và được nhóm Nhân văn coi như cương lĩnh của
mình… Trần Đức Thảo ở trong đại học và ở ngoài đại học lúc nào cũng lớn tiếng
đòi trả chuyên môn cho chuyên môn, đòi trục xuất chính trị ra khỏi chuyên môn…
Qua thư của Hoàng Cầm và nhiều tài liệu khác nữa, cho thấy đường lối chính trị
của nhóm Nhân văn là do Trần Đức Thảo trực tiếp và chủ yếu vạch ra…” (PHT,
bbđd).
Ta thấy rõ ông trí thức Phạm
Huy Thông đã tự đánh mất những liêm sỉ tối thiểu của một nhà trí thức khi dựng
đúng những chi tiết mà chỉ cần đọc lướt qua, ai cũng thấy ngay là bịa đặt.
Tố Hữu, người chỉ đạo
công tác tư tưởng và văn hóa, văn nghệ thời bấy giờ, phụ trách việc đấu tố triệt
hạ nhóm “Nhân văn - Giai phẩm”. Trong bài đấu tố nhóm này, ông cai thầu văn
hóa, văn nghệ đã nhiều lần nhắc đến tên Trần Đức Thảo:
“… Chúng vu khống Đảng ta là
‘chủ nghĩa cộng sản phong kiến’ bóp nghẹt tự do, chúng vu khống những người cộng
sản là ‘khổng lồ không tim’ chà đạp con người… xuyên tạc những quan hệ giai cấp
trong xã hội, Trần Đức Thảo cũng đã cố tạo thế đối lập giữa lãnh đạo ‘kìm hãm tự
do’ và quần chúng lao động ‘đòi tự do’… Tất cả những luận điệu của chúng rõ
ràng không nhằm mục đích nào khác là chống lại lợi ích của Tổ quốc và chủ nghĩa
xã hội, kích thích chủ nghĩa cá nhân thối nát, tạo nên miếng đất tốt cho những
hoạt động khiêu khích, phá hoại của chúng, hòng làm thất bại cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc…” (Tố Hữu, Báo cáo tổng kết cuộc tranh đấu chống nhóm
phá hoại “Nhân văn - Giai phẩm” trong hội nghị Ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn
học - Nghệ thuật Việt Nam họp lần thứ III tại Hà Nội ngày 4-6-1958).
Đó không phải là lần nhắc đến
tên Trần Đức Thảo duy nhất trong bài nói của Tố Hữu. Ở một đoạn khác, Tố Hữu
nói:
“… Trần Đức Thảo cố bịa ra
cái “hạt nhân duy lý”, là một hỏa mù cốt để xóa nhòa ranh giới giữa cái đúng và
cái sai, giữa cách mạng và phản cách mạng…” (Bđd).
Và cuối cùng, như một công
thức bất di bất dịch để đúc kết các bài viết, bài nói, Tố Hữu kết luận:
“… Lấy đường lối văn nghệ của
đảng Lao động Việt Nam làm vũ khí chiến đấu, giới văn nghệ chúng ta hãy tiến
lên tiêu diệt tận gốc đường lối văn nghệ phản động của nhóm Nhân văn - Giai phẩm”.
(Tố Hữu, bài nói đã dẫn).
Số phận của nhóm “Nhân văn -
Giai phẩm” đã được định đoạt: mất quyền công dân, bị tuớc đoạt tất cả, bị cưỡng
bức lao động ở một vùng quê. Nhiều năm sau mới được trở lại Hà Nội, sống
nghèo nàn với tài sản đắt giá nhất là một chiếc xe đạp cũ kỹ. Vợ ông, Tiến sĩ
Tâm lý giáo dục Nguyễn Thị Nhì, bị áp lực của Đảng và Nhà nước đã ly dị
ông để kết hôn với Nguyễn Khắc Viện, một người bạn thân của ông ở Pháp.
Bác sĩ Viện lúc ấy đang là con cưng của Đảng.
Nhà nghiên cứu Triết học
Marxist, Giáo sư Thạc sĩ Trần Đức Thảo đã sống trong tăm tối nghèo khổ cùng cực
trong 30 năm. Sau khi Nguyễn Văn Linh lên cầm quyền và tung ra chiêu bài
cởi mở năm 1987, ông Thảo mới được viết trở lại. Lúc này ông đã già. Năm 1991,
ông được cho qua Pháp ngắn hạn. Hết hạn, ông vẫn ở lại, sống vô cùng túng quẫn.
Bị cúp tiền, ông lén nấu ăn lấy thì bị cúp gas, cúp điện. Thấy vậy, Hội Những
Nhà khoa học Pháp (Société des Hommes de Sciences) để tỏ lòng ngưỡng mộ đã quyết
định trợ cấp cho ông vô hạn định mỗi tháng 10,000 Francs (2,000 USD). Nhưng ông
vừa nhận được tấm ngân phiếu đầu tiên vào ngày hôm trước, thì hôm sau ông qua đời.
Lời nói từ giã bạn bè ở Pháp
trước khi về nước của giáo sư Trần Đức Thảo đã trở thành một lời tiên tri bi thảm.
Tài năng của ông không có chỗ để phát huy dưới chế độ Cộng sản. Chế độ đó đã
làm thui chột một tài năng triết học có “tầm cở quốc tế” như nhà triết học nổi
tiếng Louis Althusser (bạn và là học trò của Trần Đức Thảo) nhận định.
Nhưng đã để lại cho chúng ta
một tấm gương của một nhà trí thức không cúi đầu trước sai lầm của những người
đang nắm giữ quyền lực. Và qua cái chết của ông, trong hoàn cảnh vô cùng
túng quẩn đã cho mọi người thấy sự giả trá, bịp bợm cùng cực của Cộng sản Hà Nội
qua bản thông báo của họ. “Được đại sứ quán của nước ta tại Pháp tận tình
chăm sóc…” Câu nói láo trắng trợn này được Đại sứ Hà Nội Trịnh Ngọc Thái đọc
lên một cách hết sức trơn tru khiến người ta phải nóng mặt.
Không có điếu tang. Bởi bài điếu
tang giáo sư Trần Đức Thảo nếu được viết một cách đứng đắn sẽ là những cái tát
ngược vào mặt chế dộ.
“Khi sống, con chẳng cho ăn
Khi chết, con lại làm văn tế
ruồi!
NGUYỄN THIẾU NHẪN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét